Chuối tiêu là một loại quả rất quen thuộc với người Việt, có mặt ở khắp nơi. Không chỉ giàu dinh dưỡng, chuối tiêu còn là vị thuốc quý chữa bệnh đường tiêu hóa rất tốt…
Chuối tiêu có tên khoa học là: Musa sapientum L. Tên khác là hương tiêu. Họ thực vật: Thuộc họ chuối Musacae
Bộ phận thường được dùng làm thuốc là quả chuối tiêu còn xanh hoặc đã chín và củ chuối.
1. Chuối tiêu rất giàu chất dinh dưỡng
Trong thành phần của chuối già xanh có chứa hàm lượng chất dinh dưỡng khá cao. Cụ thể trong 100g chuối xanh có chứa: Nước 74,91g, năng lượng 89 calo, protein 1,09g, chất béo 0,03g, carbohydrate 22,84g, chất xơ 2,6g, đường 12,23g. Các vitamin và khoáng chất gồm: Canxi 5mg, photpho 22mg, sắt 0,26mg, kali 358mg, kẽm 0,15mg, natri 1mg, vitamin C 8,7mg, vitamin A 64 IU,vitamin E 0,1mg; vitamin K 0,5mg, vitamin B6 0,67mg, thiamin 0,031mg, riboflavin 0,073mg, niacin 0,665mg, folate 20mg.
Chuối tiêu rất giàu chất dinh dưỡng…
Trong 100g chuối tiêu chín có 74g nước, 1,5g protid, 0,4g axit hữu cơ, 22,4g glucid, 0,8g xenluloza, cung cấp được 100 calo, vượt xa các loại quả ngọt khác về cung cấp năng lượng (100g cam cho 43 calo, đu đủ chín cho 36 calo, nhãn cho 49 calo, vú sữa cho 43 calo…).
Lượng chất glucid có trong chuối chín như vậy là rất cao, ở dạng glucoza (20%), fructoza (1,5%) và saccharoza (65%) là những loại đường tự nhiên quý của quả chín, dễ tiêu hóa, cơ thể hấp thụ nhanh và cung cấp nhiều năng lượng.
Chuối chín là loại thức ăn được cơ thể tiêu hóa nhanh và cung cấp một nguồn năng lượng đáng kể. Chỉ cần ăn vài quả chuối chín cơ thể được cung cấp ngay hàng trăm calo, do đó đây là một thức ăn quý của những người lao động thể lực nặng, các vận động viên thể dục thể thao cần nhiều glucoza trong m.áu. Khi lao động nặng nhọc kéo dài mất nhiều năng lượng, cơ thể thường phải huy động đến lượng đường trong m.áu để cung cấp cho các bắp cơ.
Trong những trường hợp này, đường glucoza trong chuối chín ăn vào sẽ được hấp thu nhanh vào m.áu bổ sung kịp thời lượng đường của cơ thể bị tiêu hoa, giúp người lao động phục hồi nhanh chóng sức khỏe.
Đây là một thức ăn thích hợp với mọi người, mọi lứa t.uổi, một loại quả ngon có nhiều chất dinh dưỡng rất cần thiết cho t.rẻ e.m, người cao t.uổi và những người lao động thể lực nặng nhọc cần bồi dưỡng sức khỏe và người lao động trí óc. Trong các quả ngọt của nước ta chuối tiêu là loại quả giầu chất dinh dưỡng và cung cấp được nhiều năng lượng nhất.
2. Tác dụng dược lý của chuối tiêu
Quả chuối tiêu chín có vị ngọt, tính rất lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, nhuận phế, chỉ khát, nhuận tràng, giải độc. Vỏ quả chuối tiêu chín, vị ngọt, chát, tính ôn, sát trùng, chỉ tả.
Theo tài liệu Ấn Độ, chuối tiêu xanh phơi sấy ở nhiệt độ thấp dưới 50 độ C, tán bột, ăn hàng ngày có tác dụng kích thích sự tăng trưởng của màng nhầy lót bên trong dạ dày bằng cách tạo thêm những tế bào sản xuất chất nhầy, làm cho màng nhầy dày lên chống lại khả năng gây loét và hàn gắn các vết loét đã có.
Lưu ý: Các loại chuối tiêu chín và xanh phơi khô ở nhiệt độ cao không kích thích tăng trưởng màng nhầy có ý nghĩa.
Tác dụng trên nấm và vi khuẩn: Dạng chiết bằng cồn methanol từ quả chuối tiêu có tác dụng ức chế nấm và vi khuẩn. Hoạt chất kháng nấm có khả năng là musarin.
3. Bài thuốc chữa bệnh tiêu hóa từ chuối tiêu
Quả chuối tiêu xanh được dùng chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ
Quả chuối tiêu xanh được dùng chữa bệnh tiêu chảy và kiết lỵ. Quả chuối tiêu chín nhuận tràng, làm dịu, thúc đẩy sự lên da non ở các vết thương tổn trong viêm ruột kết có loét, chống các rối loạn ruột và dạ dày, đặc biệt là chống các bệnh tiêu chảy cấp và mạn tính, bệnh viêm ruột, táo bón, bệnh thiếu vitamin C.
– Vỏ quả chuối tiêu chữa lỵ, đau bụng, thổ tả: Ngày 15-30g sắc uống. Dùng ngoài, sắc lấy nước rửa những chỗ mẩn ngứa, l.ở l.oét.
– Bột quả chuối tiêu xanh để phòng và chữa loét dạ dày: Vỏ quả chuối xanh có tác dụng làm se, diệt nấm. Nhựa của quả xanh chữa hắc lào.
– Lá chuối tiêu non còn ở trong thân giả, giã nát, đắp là thuốc cầm m.áu vết thương, làm dịu vết bỏng.
– Củ và rễ chuối tiêu giã lấy nước cốt hoặc dịch thân cây uống chữa sưng tấy, nhọt sưng đau, nóng quá phát cuồng, mê sảng, co giật, kiết lỵ, tiêu chảy.
Thận trọng khi sử dụng: Chuối giàu hydrat cacbon không nên dùng quá nhiều cho người bệnh đái tháo đường.
Hội chứng ruột kích thích theo y học cổ truyền
Hội chứng ruột kích thích là một trong những rối loạn tiêu hóa phổ biến, ảnh hưởng 5-10% dân số nói chung trên toàn cầu.
Hội chứng ruột kích thích gây ra nhiều triệu chứng khó chịu ảnh hưởng tới sinh hoạt và công việc của người bệnh. Ảnh minh họa: Unsplash.
Hội chứng ruột kích thích (Irritable bowel sydrome – IBS) là một trong những rối loạn tiêu hóa phổ biến, ảnh hưởng 5-10% dân số nói chung trên toàn cầu.
Đây là trạng thái rối loạn vận động mạn tính của đại tràng, biểu hiện gồm thay đổi thói quen đại tiện, đau bụng nhưng không có bằng chứng tổn thương thực thể.
Cơ chế bệnh sinh chủ yếu liên quan đến: tăng cảm giác đau tạng do kích thích các receptor cơ học (giảm ngưỡng đau trong đáp ứng khi ruột căng phồng), các bất thường thay đổi nhu động ruột lúc nghỉ, trong đáp ứng với stress; và sự phân bố thần kinh ngoài ruột bất thường.
Người bệnh có thể kèm theo một vài rối loạn tâm lý như: trầm cảm, hysteria, rối loạn ám ảnh cưỡng chế… hoặc không dung nạp một vài loại thức ăn đặc biệt, kém hấp thu ở đoạn cuối hồi tràng…
Theo y học cổ truyền, căn cứ vào các biểu hiện lâm sàng chính của hội chứng ruột kích thích tương ứng với phạm trù các chứng tiết tả, tiện bí, phúc thống.
Những người bệnh có triệu chứng đau bụng, khó chịu vùng bụng làm chủ chứng thì thuộc phạm trù chứng “phúc thống”. Những người có chủ chứng đại tiện phân trong, loãng thì thuộc chứng “tiết tả”. Những người đại tiện khó, phân khô táo là chủ chứng thì thuộc chứng “tiện bí”.
Có 3 cơ chế chính sinh ra bệnh:
Tỳ Vị hư nhược và (hoặc) Can mất sơ tiết là yếu tố khởi phát quan trọng.
Can uất Tỳ hư là cơ chế bệnh sinh quan trọng dẫn đến sự xuất hiện các triệu chứng.
Tỳ thận dương hư, hư thực lẫn lộn khiến bệnh kéo dài và khó khỏi.
Có nhiều nguyên nhân làm cho Tỳ mất kiện vận, mất chức năng vận hóa, hình thành các sản phẩm bệnh lý như: thủy thấp, thấp nhiệt, đàm ứ, thực tích… trở trệ khí cơ dẫn đến công năng trường đạo rối loạn.
Can mất khả năng sơ tiết, hoành nghịch phạm Tỳ, Tỳ khí bất thăng tắc tiết tả. Nếu phủ khí thông giáng bất lợi thì dẫn đến phúc thống, phúc trướng; trường phủ mất chức năng truyền tống làm tiện bí, bệnh lâu ngày làm Tỳ Thận dương hư, hư thực lẫn lộn.
Trong giai đoạn đầu của bệnh, phần lớn Can khí uất kết, mất sơ tiết, Can khí hoành nghịch thừa Tỳ, sau đó Tỳ thất kiện vận, sinh thấp ở trong, Tỳ hư lâu ngày mà dẫn tới Tỳ dương bất túc, sau đó Thận dương bị ảnh hưởng.
Do đó, bệnh lấy thấp làm trung tâm, Can khí uất kết xuyên suốt từ đầu đến cuối, khí cơ thất điều lấy làm ngọn, mà Tỳ Vị dương hư lấy làm gốc. Trong suốt quá trình phát bệnh, Can mất sơ tiết, Tỳ thất kiện vận, Tỳ dương cập Thận dương mất khả năng ôn ấm, cuối cùng dẫn đến cơ chế bệnh chuyển từ thực sang hư, hư thực lẫn lộn.
Tùy theo thể bệnh mà có thể ứng dụng các bài thuốc như Sâm linh bạch truật tán, Thống tả yếu phương, Phụ tử lý trung hoàn, Ô mai hoàn, Tăng dịch thang, Hoàng kỳ thang… để ích khí nhuận trường, ức Can phù Tỳ, kiện Tỳ hóa thấp chỉ tả, ôn bổ Tỳ Thận… từ đó giải quyết các triệu chứng của bệnh, lặp lại bình hòa ở trung tiêu và hạ tiêu.
Một vài nghiên cứu thời gian gần đây việc kết hợp châm cứu với thuốc y học cổ truyền cho thấy những hiệu quả đầy hứa hẹn trong việc ứng dụng châm cứu điều trị IBS.
Các huyệt thường được chọn dùng để điều trị như: Trung quản, Thiên xu, Túc tam lý, Thái xung, Tam âm giao, Quan nguyên, Chương môn, Thận du, Tỳ du, Đại trường du,…
Hội chứng ruột kích thích gây ra nhiều triệu chứng khó chịu ảnh hưởng tới sinh hoạt và công việc của người bệnh. Ngoài ra, khi bị bệnh, nếu kiêng khem nhiều loại thực phẩm thì cơ thể người bệnh sẽ không được bổ sung đầy đủ chất dinh dưỡng, dẫn đến suy yếu, mệt mỏi. Đặc biệt, người bệnh còn dễ bị ảnh hưởng tâm lý, chán nản hoặc trầm cảm vì căn bệnh không được điều trị dứt điểm.
Vì vậy, việc kết hợp điều trị y học cổ truyền trong điều trị bệnh là một lợi thế giúp người bệnh khỏe mạnh hơn, chất lượng cuộc sống được cải thiện hơn.